Sau giờ giáo lý với các em, tôi trở về phòng và nhận được cuộc điện thoại của Bề trên:
– “Mời Em về Nhà dòng vào ngày… để nhận bài sai sứ vụ”.
Tôi thẫn thờ.
Dẫu vẫn biết việc nay nơi này, mai chốn khác là lẽ thường tình của người bước theo Chúa Kitô trong đời dâng hiến, nhất là với những Hội dòng có tính chất hoạt động như Dòng của tôi. Nhưng tôi không tránh khỏi cảm giác hụt hẫng và buồn. Làm sao có thể không buồn khi tôi đang có những tháng ngày yên bình nơi giáo xứ này với những công việc đã dần trở nên quen thuộc và ổn định? Làm sao không buồn khi tôi đang tạo được những tương quan êm đẹp với bà con giáo dân? Làm sao không chạnh lòng khi phải chia tay những em nhỏ dễ mến trong các lớp giáo lý, lớp khấn, và ở các ca đoàn lớn-nhỏ? Rồi nhiều việc khác mà tôi đang làm với bao nhiệt huyết. Ấy là chưa kể, người chị em mà tôi đang sống cùng cũng khiến tôi cảm nhận một đời sống vui tươi của đời hiến dâng với tình cảm thiêng liêng trong Chúa. Thêm nữa, giáo xứ này được ví như “mối tình đầu” của tôi, bởi đây là nơi đầu tiên mà Hội dòng sai tôi đến trong sứ vụ tông đồ của mình cách đây 4 năm. Một mối tình thật đẹp dẫu cũng có những lúc “nắng, mưa” và thăng trầm… Nhưng trên tất cả, giáo xứ này, mảnh đất này đã “hoá tâm hồn” với tôi.
Thế rồi… khi nghe tin sẽ chuyển tới một nơi khác. Lòng tôi nao nao. Tôi đã không làm được gì nhiều trong buổi chiều hôm đó, nên tôi chọn giải pháp ra Nhà thờ và ngồi trước Thánh Thể để mong có thể “xếp lại” những ngổn ngang của mình. Thật tệ là trong thời khắc đó, trước Chúa Giêsu Thánh thể, tôi cũng không dễ tìm lại sự an bình. Trái lại, tôi bắt đầu lo lắng đủ thứ cho một tương lai “bấp bênh” trước mắt. Tôi thực sự thấy lòng chênh vênh. Trong một khoảnh khắc, tôi còn nghĩ: “hay mình xin Bề trên để ở lại?” “Hay mình… Hay mình…” Rất nhiều giả định đã được tôi nghĩ đến với suy tính của một con người yếu đuối. Lúc ấy, tôi mới cảm thấu nỗi lòng của những chị em “được chuyển đổi” khi mọi thứ đang trong quỹ đạo của sự tốt đẹp, và phần nào hiểu được những bận lòng của chị em khi phải đến một nơi mà mình chưa biết có gì ở đó đang đón đợi, hoặc cảm thấy sứ vụ mới vượt qúa sức mình, v.v.
Nhưng rồi, những “xao động” cũng dần qua đi, tôi bắt đầu bình tâm hơn và có thái độ biết đón nhận hơn nhờ những khoảng lặng bên Thánh Thể. Tôi thầm nghĩ, có lẽ dừng lại giữa lúc mọi thứ đang êm đẹp thế này sẽ để lại những dấu ấn tuyệt vời nhất cho tất cả, và sứ vụ mới này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Hội dòng, cho các linh hồn và cho chính bản thân tôi hơn. Cũng có lẽ, giáo xứ này cần một luồng sinh khí mới từ một chị em nào đó khác tôi. Và có lẽ, tôi sẽ trở nên có ích hơn ở một nơi nào đó với những công việc mới và con người mới… Tôi cũng nhớ lại, khi xưa, tổ phụ Ápraham đã ra đi mà không biết mình đi đâu khi ông đã ở tuổi rất cao, bảy mươi lăm tuổi (x. St 12, 1- 4), còn tôi, tôi thấy mình “may mắn” hơn bởi tôi “chưa quá già” và tôi biết mình sẽ đi đâu. Tôi cũng nhớ lại bao bài học trong các giai đoạn đào tạo sơ khởi về thái độ biết đón nhận ý Chúa qua ý Bề trên dù có trái ý mình. Bên cạnh đó, có chút xấu hổ, khi tôi nhớ lại trong các lớp học, tôi đã thường xuyên nhắc nhở các em nhỏ phải biết nghe lời ông bà, cha mẹ và người lớn ra sao.
Trên tất cả, tôi hình dung lại những giá trị của Lời khấn Vâng phục. Nếu vâng phục, là tôi đang sống niềm hy vọng và tín thác, đó cũng là lúc tôi thi hành triệt để sứ vụ của mình bởi khi can đảm tuyên hứa với Thiên Chúa qua Lời khấn dòng, là lúc tôi tự do để sống đời Vâng phục qua việc thi hành sứ vụ (Cha Tymothy Radcliffe, OP). Hơn thế nữa, tôi đang bước theo Thầy Giêsu Chí Thánh, Đấng đã sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa Cha, dù Ngài biết ý muốn ấy là “chén đắng” chứ không phải “mật ngọt”, và chén ấy đắng đến nỗi Ngài đã phải quỳ gối cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con”. Tuy vậy, Ngài đã can đảm để thưa: “xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22, 42), để rồi, giá máu Ngài đổ ra đã đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Tất cả những điều đó đã giúp tôi có quyết định rõ ràng và dứt khoát. Tôi gọi điện cho Bề trên và thưa “vâng”. Tôi tin rằng, phía trước của cuộc đời tôi, trong từng mệnh lệnh Chúa trao, Ngài không để tôi phải cô đơn một mình. Ngài luôn nói với tôi: “Đừng sợ, có Ta ở với ngươi” (Is 41, 10). Tôi thấy lòng thanh thản và bình an.
Têrêsa Dung Đinh