Là Kitô hữu, từ nhỏ khi đến nhà thờ, dưới sự diễn giải của các vị hữu trách, tôi có cảm nghiệm về Thiên Chúa như là Đấng uy nghiêm, lạnh lùng, quyền phép vô biên, thưởng phạt nghiêm minh. Trong vô thức khiến tô/ ta có suy nghĩ Thiên Chúa quá đáng sợ, là vị Thần “không nên động thì chớ chọc vào” kẻo rước họa vào thân. Nhưng giờ đây khi viết bài này, suy nghĩ ấy đã thay đổi, hóa ra Thiên Chúa không đáng sợ, cũng chẳng “khó chơi” như tưởng tượng. Thậm chí trong một vài câu chuyện từ Kinh thánh, ta còn thấy Thiên Chúa rất dễ “chạnh lòng” trước những người đói khổ, nghèo hèn, nhất là với những những ai có tâm hồn hiền hậu, khiêm nhu biết vì người khác mà kêu xin thì họ hoàn toàn có hy vọng “thuyết phục” được Ngài đoái thương nhìn đến, kể cả thay đổi ý định trừng phạt.
Những điều nói trên đã được chứng minh trong sách Sáng thế chương 18,20-33. Đoạn kinh thánh này kể lại tình trạng sống gian ác và tội lỗi của dân chúng ở Xơ-đôm và Gô-mô-ra, khiến Thiên Chúa phải đưa ra quyết định tru diệt hai thành này. Nhưng sau cuộc đối thoại với Ap-ra-ham, Thiên Chúa dường như đã mủi lòng. Cuộc đối thoại này đã mở ra cho chúng ta một cái nhìn hoàn toàn mới về Thiên Chúa. Chân dung của Ngài hiện ra trong câu chuyện như một ông chủ đang lên kế hoạch thực hiện dự án, nhưng Ngài bỗng trở thành “người ngốc bị lợi dụng” khi tiết lộ kế hoạch cho Ap-ra-ham. Và Ap-ra-ham đã mặc cả, “hạ giá lợi nhuận” hết lần này đến lần khác: từ con số năm mươi người lành, xuống bốn mươi lăm, rồi tới bốn mươi, lại ba mươi, xuống tiếp đến hai mươi vẫn chưa xong, lại hạ đến mười, thế mà Thiên Chúa vẫn đáp ứng yêu cầu của đối phương : “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Xơ-đôm”.
Còn Ap-ra-ham trong câu chuyện hiện lên như một người hào hiệp nhưng cũng rất khôn khéo khi can thiệp cầu xin cho thành Xơ-đôm: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?”(St 18, 23-25). Hàng loạt câu hỏi mà Ap-ra-ham đưa ra đã nêu lên vấn nạn muôn thuở mà sách Gióp, cũng như các Ngôn sứ vẫn quan tâm “Nếu, coi người lành cũng như kẻ dữ” thì còn đâu là sự công minh của Thiên Chúa? (x. Rm 3,6). Và quả thật có lẽ đây mới là lý lẽ có sức thuyết phục để Ap-ra-ham có hy vọng “thắng” được trên “bàn đàm phán”.
Tiếp đến, thánh sử Mat-thêu tở chương 15, câu 21 đến 28 cũng tường thuật lại một câu chuyện rất đặc biệt. Trong tình thế tuyệt vọng, trước sự an nguy của con gái, người đàn bà Ca-na-an bất chấp sự khác biệt tôn giáo và ánh nhìn kì thị của dân chúng, đã chạy đến với Chúa Giê-su van nài khẩn thiết:“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi!” Nhưng Đức Giê-su lại buông một câu:“Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Dù không có mặt tại đó vào thời điểm ấy, nhưng hẳn ai trong chúng ta cũng sẽ bất bình khi nghe được câu trả lời của Đức Giê-su, nhất là đối với văn hóa Phương Đông, dùng danh từ “chó” để gọi người khác là một lời nguyền rủa rất nặng. Nhưng người đàn bà chỉ cất lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Nghe được câu đối đáp ấy, hẳn chúng ta đều chết lặng, đó là sự im lặng của ngạc nhiên, thán phục, bà ấy thậm chí không phủ nhận thân“chó” mà còn tự hạ xuống phận “chó con”. Trước sự van nài rất khiêm nhường và lòng tin sắt đá của bà ấy, Đức Giê-su từ việc “không đáp lại một lời” đã phải nhìn lại và thốt lên thừa nhận: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15, 28).
Qua câu chuyện người đàn bà dân ngoại này, chúng ta nhận ra rằng sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Ki-tô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Người đàn bà Ca-na-an này là dân ngoại nghĩa là không được kể trong hàng ngũ con cái, nhưng bà đã tin và “cầu xin với lòng tin không chút do dự” (Gc 1,5-8). Tin vào quyền năng của Thiên Chúa trước thế lực sự dữ, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, đó là một đòi hỏi chủ đạo của người có niềm tin, bởi chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Tình yêu Thiên Chúa là không giới hạn, sức mạnh của Ngài là vô biên nhưng có ai ngờ được Đấng có tự đời đời, Đấng vô thủy vô chung ấy lại rất dễ mềm lòng. Nếu nói cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa trong tình thân mật cha với con, vậy thì hai câu chuyện trên được xem như là tâm tình mà bất cứ ai trong chúng ta khi cầu nguyện cũng nên học hỏi. Học sự đơn sơ, chân thành, khiêm tốn, biết vì người khác mà cầu xin ơn tha thứ… Đó mới là những nhân tố hết sức quan trọng đưa ta đến gần và chạm đến lòng Thương xót. Nhờ đó, ta có quyền hy vọng Thiên Chúa sẽ thay đổi ý định ngó lơ hay trừng phạt trước yếu đuối lỗi lầm mà ta và tha nhân trót phạm.
Như vậy, đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống người Ki-tô hữu, nhưng sau khi suy gẫm, cầu nguyện, ta cũng phải nghiêm túc suy nghĩ xem mỗi người phải diễn tả và thực hành niềm tin vào Chúa như thế nào trong đời sống hằng ngày?
Nt. Scholastica Vũ Hiền