“Hãy qua cửa hẹp vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà ít người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt7,13-14).
Lời Chúa trong Tin Mừng thánh Matthêu trên đây gợi lên trong tôi nhiều hình ảnh và suy tư về hành trình bước theo Đức Kitô của người kitô hữu. Mỗi người được Chúa ban cho sự tự do để chọn lựa con đường nhỏ hẹp hay thênh thang, cửa rộng rãi hay chật hẹp để bước qua. Và cách thức chúng ta chọn lối đi cho riêng mình tùy thuộc vào tình yêu và niềm tin của mỗi người đối với Đức Giêsu. Một điều rất đặc biệt là Người chỉ mời gọi chứ không bắt buộc chúng ta phải đi theo lộ trình nào. Chính sự tự do đó nói lên tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người cũng như mức độ đáp lại lời mời gọi ấy nơi người được gọi mời.
Mỗi người Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy là đồng thời tham dự vào sự sống của Đức Kitô và trung kiên bước theo Người làm sứ giả của tình yêu Thiên Chúa. Tôi liên tưởng đến mẫu gương của các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài là những người con trung hiếu của đất Việt và những Kitô hữu trung thành của Mục Tử Giêsu, bởi các ngài biết cách sử dụng tự do trong tình yêu và lý tưởng để rồi các ngài đã chọn theo dấu chân thầy Giêsu đi vào con đường hẹp mà ít người lựa chọn. Với ơn Chúa trợ giúp và lòng mến thủy chung với Giáo hội mà mỗi làn roi đau đớn trên thân xác, mỗi lời khinh miệt trong tâm hồn là khúc nhạc tình yêu đã được tấu vang trong trường ca Nhân Chứng Đức Tin. Chúa đã ban cho các ngài sự can trường, để gông cùm, tra tấn và cả sự chết cũng không lay chuyển lòng tin cậy mến vào Thiên Chúa của các ngài. Chúa đã ban cho các ngài lương thực thiêng liêng để thăng tiến về thiên quốc với cành lá thiên tuế trong tay. Cũng vì yêu mà Chúa Giêsu đã đến trần gian để yêu và yêu chúng con đến cùng bằng dòng máu cứu độ trên thánh giá. Chúa đã nên hạt giống gieo vào lòng đất để mục nát và trổ sinh mùa lúa dồi dào. Nhờ mẫu gương của Thầy Chí Thánh mà các thánh tử đạo đã cùng Giêsu biến tan đời mình trong hy tế để nên tấm bánh hiến dâng.
Sách Khôn Ngoan đã khắc họa chân dung của những vị anh hùng chiến sĩ kitô: “linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn được chứa chan hy vọng, được trường sinh bất tử. Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa và đón nhận như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy”. Thật vậy, “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Dù sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.” (Rm 8, 35-37)
Các thánh tử đạo đã liều mất mạng sống mình vì Tin Mừng để được sống trường sinh, đã gieo đời mình trong đau thương để bước theo con đường của Thầy Giêsu. Bên cạnh đời sống bình dị của tình nghĩa và gia đình, các ngài còn rất mãnh liệt trong tình yêu và lòng trung thành với Thiên Chúa như Thánh Martino Thọ đã căn dặn các con: “Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ, hãy nhớ đọc Kinh sáng tối và lần chuỗi mân côi mỗi ngày. Chúa ban cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”. Các thánh tử đạo đã nên chứng nhân sống Tin Mừng yêu thương bằng lòng khoan dung tha thứ như thánh Enmanuel Phụng tại pháp trường nhắn nhủ con trai mình: “Con ơi !Hãy tha thứ, đừng tìm cách báo thù kẻ tố giác cha nhé”. Và dặn dò thân hữu: “Hãy tha thứ, các bạn ơi hãy tha thứ vì chính tôi đã tha thứ”. Chính lòng tha thứ ấy đã dẫn đưa các ngài theo sát Đức Kitô dưới chân thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Các ngài đã cùng Thầy Giêsu trở nên Chiên Hy Tế: “Chớ gì máu tôi hòa với máu Đức Kitô trên đồi Canvê tẩy rửa tôi sạch muôn vàn tội lỗi”; “Tôi sẵn sàng chết vì Đấng đã chết cho tôi. Đến ngày hiến tế của tôi, xin cho ý Chúa được thể hiện. Ngày đẹp nhất đời tôi là ngày hiến tế trên bàn thờ tử đạo”. Những ngôn ngữ không phát xuất từ những khoa thần học cao siêu nhiệm mầu, cũng không gợi hứng từ những thiên sử hùng tráng nhưng được vang vọng lên từ trái tim nồng nàn tình mến chúa. Các thánh tử đạo đã hoàn tất cuộc đời mình trong máu đào của tình yêu hiến tế, hầu bước theo Đức Kitô lên đồi Canvê. Chân dung các thánh tử đạo Việt Nam được tổ điểm bằng muôn vàn nét nhưng nét đẹp nhất trong chân dung các ngài là niềm tin Phục Sinh. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật.Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự hủy và hiến dâng.Các ngài xác tín rằng, chết vì Đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời, chết là chiến thắng, chết là để đi vào cuộc sống vĩnh cửu.
Liên tưởng đến cuộc đời người tu sĩ, chúng ta không bước theo Chúa bằng con đường tử đạo nơi pháp trường như các thánh tử đạo, nhưng mỗi người được mời gọi bước theo Chúa trong từng giây phút của cuộc sống hiện tại. Một chút cố gắng để trung thành với giờ cầu nguyện mỗi ngày, một chút hy sinh và đón nhận những khó khăn để chu toàn việc bổn phận. Điều quan trọng không phải là việc làm nhưng là tình yêu chứa đựng trong những việc làm đó. Thật vậy, “Ơn riêng Thiên Chúa ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên đình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban” (1Pr 4, 10-11).
Thế nên, hãy bỏ một chút và chỉ cần một chút tình yêu vào mỗi công việc thì dòng máu cứu độ của Chúa Kitô sẽ tuôn chảy vào cuộc đời ta và đọng lại trong niềm vui phục vụ. Chỉ cần một chút tình yêu thôi thì những khác tính , những suy nghĩ bất đồng, những lời nói thiếu tế nhị hay những việc làm không đẹp giữa chị em sẽ được hóa giải thành tha thứ và cảm thông, bao dung và nâng đỡ, tạo nên nét đẹp thắm đượm tình huynh đệ trong đời sống cộng đoàn.
Hồng Sợi