- Nè, anh ơi, đây xuống Chợ Lớn bao nhiêu vậy?
- Dạ, Chợ Lớn, mà chỗ nào chị?
- Đến ngay cửa chợ Bình Tây cho tui xuống.
- Dạ, cho em mười hai đồng.
- Tám đồng… Thôi, mười đồng.
- Dạ được, mời chị lên.
Vừa trả lời Trường vừa hạ càng xe xuống sát đất. Chị phụ nữ đẫy đà bước vội lên xe, tay phải cầm chặt giỏ hàng to tướng.
“May cho mình là trong giỏ không có hàng, bà này đi Chợ Lớn lấy hàng đây”. Trường vừa rướn người cố sức đạp lấy trớn, vừa suy nghĩ mông lung.
Mặt trời đã đứng bóng. Ban nãy, Trường đang đẩy xe ghé vô tiệm cơm bình dân cặp bên hông chợ Bà Chiểu, định kêu một dĩa cơm đậu hũ kho thì nào ngờ bà khách này đến gọi làm Trường phải chạy tiếp. Anh cúi rạp người xuống, dồn hết sức xuống hai bàn chân, cố đạp thật nhanh đến chợ Bình Tây để còn ăn cơm, anh đã cảm thấy đói cồn cào. Ở dưới đó có nhiều quán cơm bình dân, đã ngon lại còn rẻ…
- Ê! Ê! Ghé vô, ghé vô…
Đang đạp ngon trớn, anh giật mình, ngửa người với tay ra phía sau yên xe kéo mạnh càng thắng. Chiếc xe xích lô già nua lết bánh xoèn xoẹt trên mặt đường.
- Dạ, sao? Có gì không chị…
- Sao anh không kéo mui xe lên dùm tui, nắng quá nè!
Tường vội nhảy xuống, bật mui lên. Xong, anh vội nhảy thót lên yên xe, mải miết đạp, cố lờ đi những lời càu nhàu của bà khách to béo về cái mui xe rách tơi.
Trời không chút mây, nắng thật. Mấy ngày giáp tết, mặt trời rực lửa. Sài Gòn nóng bức đến lạ. Mồ hôi anh đổ dài từ trán xuống ướt đẫm đôi chân mày, chui vào tận hai khóe mắt. Mồ hôi cũng từ lưng anh toát ra ướt cả áo, đẫm cả thắt lưng. Trường gắng sức đạp nhanh để mong có chút gió làm dịu bớt mồ hôi, nhưng anh càng cố sức đạp mồ hôi càng đổ ra như tắm. Thế mà mới cách đây hơn mươi ngày, ông trời vẫn còn mưa tầm mưa tã…
Anh thuê chiếc xe xích lô này đã gần hai năm. Không phải vì xe mướn mà anh không thay mui xe. Tiền đâu mà thay tấm mui mới. Cái nón lá trên đầu anh còn tơi tả hơn cái mui xe kia nhiều! Xe đẹp, khách đông. Biết vậy, nhưng cái khó đã bó mất cái khôn. Hai đứa con anh còn quá nhỏ còn vợ thì đang mang bầu. Nghề chạy xích lô cứ bữa nắng bữa mưa nhưng tiền thuê nhà thì phải sòng phẳng bất kể tháng mưa hay tháng nắng. Gặp ngày đắt khách, anh liền mua chút thịt về để cải thiện bữa ăn cho hai đứa nhỏ đang tuổi háu ăn, và còn bồi dưỡng cho đứa nhỏ trong bụng mẹ nó… Do đó tết tới, nắng gắt, mà anh cũng không kiếm đâu ra mươi đồng để thay tấm mui và sơn mới chiếc xích lô đã bạc màu qua bao mùa mưa nắng như mái tóc “muối nhiều hơn tiêu” của các cụ ngoài bảy mươi!
Nghĩ tới đây, thì xe cũng vừa trờ tới cổng chợ Bình Tây. Bà khách béo phì nặng nề bước xuống khỏi xe. Nhẹ nhàng. Anh tà tà đạp xe tìm đến quán cơm quen thuộc. Bất ngờ, một bà khách khác hai tay xách hai giỏ đầy, bước ra xe và bảo anh đưa về cảng Quận 4. Không kịp gọi cơm, anh lại leo lên xe tiếp tục đạp.
Chiếc xe thân thương của anh cố sức đi ngang qua nhiều chợ nhỏ, chợ lớn. Nhiều chợ hoa muôn màu muôn vẻ đã lùi lại phía sau anh. Thật sự Trường không dám nhìn thẳng vào hàng hàng lớp lớp những chậu hoa rực rỡ mùa xuân ấy. Mặc cho bụi, khói giăng giăng phủ ngập thành phố này, anh vừa hít lấy bầu khí ấy vừa cố sức đạp nhanh. Không phải anh muốn trốn chạy khỏi ánh xuân đang đến, nhưng đúng hơn anh không muốn gợi nhớ đến những ngày tết nhà anh đầy hoa, những mùa xuân sung túc bạc tiền và ngất ngưởng danh vọng trong quá khứ của mình…
Đã quá trưa, mà chợ nào cũng còn tấp nập người mua kẻ bán. Kẻ ra người vào, chen chúc nhau. Tường cũng được đông khách. Đúng là tết có khác. Quên đi cái đói cồn cào, anh cố sức đạp, đạp mãi, đạp mãi…
“Hôm nay nhịn cơm một bữa cũng không sao, vì một năm mới có tết một lần. Thời cơ kiếm tiền đây mà!” Anh thầm nghĩ vậy.
Ngày hôm qua, thấy nhà hàng xóm mua sắm tết, vợ anh thinh lặng không nói gì. Sáng nay, khi anh chuẩn bị đẩy xe ra thì vợ anh nói:
“Xin Chúa cho anh chạy xe đắt khách, để mai em đi chợ tết mua thịt và ít bánh mứt cho mấy con”.
Đứa con trai cũng thỏ thẻ với anh:
“Hồi tối, con với mẹ có cầu xin Chúa cho ba chạy xe có tiền nhiều… Ba nhớ mua cho con một ký thịt heo với hai trái dưa hấu nhe ba”.
Hôm nay đã là 28 tết rồi mà nhà anh chưa sắm sửa gì! Người ta làm cơ quan có tiền thưởng tết, vợ ôm tiền rủng rỉnh đi mua sắm. Còn cái nghề lang thang này, ngày tư cũng như ngày tết, chả có gì khắc biệt. Hoạ may là có trúng số!
Ngồi chót vót bên trên, anh vừa cố đạp cho nhanh, vừa liếc mắt xuống, nhìn mãi hai cái giỏ xách đầy ắp hàng tết của bà khách giàu có lắm tiền đang ngồi bên dưới: nào thịt, nào giò chả, nào bánh mứt mà vừa buồn vừa tủi cho thân phận nhập cư của gia đình anh.
Đời anh đã một thời vi vút trên cao. Suốt hai năm qua, có rất nhiều vị khách đã ngồi bảnh chọe trên chiếc xe xích lô đạp cà tàng này, nhưng không ai hiểu được quá khứ của anh. Một quá khứ không đến nỗi tệ!
Trường đã từng có một cơ ngơi khá khang trang, còn vợ anh là một cô giáo dạy trường huyện hẳn hoi. Anh là chủ nhân của mấy vuông tôm rộng lớn ở miền Tây sông nước. Vào thời đó, một chiếc Honda là niềm mơ ước của nhiều người mà nhà anh mỗi khi chạy đi trên đường hẳn đã không ít người nhìn theo ngưỡng mộ. Anh còn có cả chiếc xe tải nhỏ để vận chuyển thức ăn và vật dụng nuôi tôm cũng như thành phẩm đến giao cho các công ty lớn đóng hàng đi xuất khẩu. Tết đến thì bánh kẹo, thịt kho, hoa tết rực rỡ cả cái sân trước nhà. Có thể nói, gia đình anh sống trong cảnh sung túc và ấm no mà không mấy ai có được vào thời điểm đó.
Nhưng, cuộc đời mấy ai hiểu được chữ ngờ. Có những việc xảy đến bất ngờ đã làm đổi thay tất cả. Năm đó, cơn bão lớn bất ngờ đổ vào khu vực miền Tây đã lấy đi tất cả mồ hôi và nước mắt mà gia đình anh đã khổ công gầy dựng bao năm. Mấy vuông tôm là sản nghiệp bị thất thoát vì mưa lũ, sau đó lại mất trắng vì dịch bệnh làm cho tôm chết hàng loạt mà không rõ nguyên nhân. Tệ hơn nữa, một người nhân công anh thuê làm công, trong khi làm việc, đã vô tình bị điện giật dẫn đến tử vong. Thiên tai mất mùa, lại thêm phải đền bù cho gia đình người công nhân bất hạnh làm cho gia đình anh lâm vào kiệt quệ về tinh thần cũng như vật chất. Lương của vợ anh không còn đủ để lo cho gia đình lúc ấy đang có hai con nhỏ: một đứa ba tuổi còn đứa kia mới được hơn bốn tháng…
Niềm vui công việc không còn, tinh thần lại càng thêm sa sút. Cuộc sống ở tỉnh lẻ thật là khó khăn.
Anh muốn lên thành phố này với một hy vọng sẽ khấm khá hơn, và cũng vì muốn quên đi một quá khứ vi vu ngày nào… Vợ anh thinh lặng, nhưng anh hiểu cô cũng thật xót xa cho anh trong nghề đạp xích lô…
Rồi trong một ngày mùa hè đỏ lửa màu phượng vĩ, vợ chồng anh đã âm thầm giã từ thị xã u buồn và bình lặng, đã chứng kiến biết bao ký ức đẹp đẽ của thời “thanh mai, trúc mã” và những kỷ niệm vàng son của ngày ấy… Riêng vợ anh, không dám giã từ đám học trò coi cô như mẹ để khăn gói lên thành phố này. Khi gia đình anh chầm chậm bước chân lên chiếc phà bập bềnh quen thuộc từ tấm bé, có lẽ chỉ có tiếng nhạc ve sầu nhẹ nhàng tiễn đưa, tiếp đó là tiếng còi phà lạnh lùng dội xuống mặt sông, bật lên không trung, rú lên inh ỏi báo hiệu giờ rời xa “bến xưa”, làm ù tai nhói tim của những kẻ trên đường tha phương cầu thực…
- Cho xuống, cho xuống đi!
Giọng nói the thé của bà khách kéo giật anh trở về với thực tại, giã từ khỏi dĩ vãng sống động mà anh không bao giờ quên. Bà khách trả tiền, bước vào ngôi nhà sang trọng rồi đóng sầm cửa lại. Nhưng anh vẫn còn đứng tần ngần, ngó sang bên kia đường. Đó là lối vào một ngôi chợ gì đó mà anh không biết tên. Một ngôi chợ khá sầm uất. Bóng người thấp thoáng ra vào…Anh chỉ cảm nhận vậy thôi, ngoài ra anh không có một cảm thức gì rõ nét. Có lẽ những hoài tưởng vi vu kia chưa thả hồn anh xuống thực tại mặn đắng mồ hôi hiện giờ.
Sau tiếng hú ga của chiếc xe gắn máy đời mới vọt nhanh ngang tầm mắt, bỗng anh thấy một vật gì to, nặng, rơi bịch xuống lòng đường… Anh cố nhướng mắt nhìn kỹ. Nhưng cái nắng gay gắt của đất Sài Thành, cái đói âm ỉ gặm nhấm âm thầm nhưng cũng gay gắt không kém làm mắt anh mờ đi… Sau một lúc định thần nhìn kỹ, anh đã thấy rõ một mảng thịt đang nằm vừa hớ hênh, vừa gọn ghẽ trong một tấm lá chuối to trên mặt đường nhựa, cách chỗ anh đứng khoảng hai mét.
- Ai làm rớt vậy?
Anh vừa tự hỏi vừa rảo mắt nhìn quanh xem có ai đến nhặt lên không. Nhưng năm phút, rồi mười phút trôi qua vẫn không ai đến nhặt. Chỉ thấy dòng xe cộ ngược xuôi qua lại. Thậm chí không ai đến gần khối thịt ngon lành đó. Không một ai để ý tới nó, rõ ràng không ai nhìn thấy nó, ngoại trừ anh.
Tôi có thể lượm lên và mang về cho gia đình không? Một phần thịt thật ngon lành “trong tầm tay” nhưng lại ngoài khả năng tài chánh của tôi! Tôi có bị tội tham của người không? Nhưng đây là của vô chủ mà! Mà không, có chủ chứ! Nhưng người ta làm rớt, không hay biết và đã bỏ đi rồi! Nhưng có thể kẻ đánh rơi sẽ quay trở lại. Bao lâu nữa? Khi chủ quay lại, có lẽ một chiếc xe tải nào đó đi ngang qua sẽ làm dập nát nó rồi chăng? Sau một hồi đấu tranh tư tưởng giữa lấy hay không lấy, anh từ từ bước ra đường để nhặt cục thịt ấy…
- Trời! Trời ơi! Két….Két…Két!
Anh giật nẩy mình. Thôi chết, kẻ đánh rơi đã quay lại rồi! Anh nghĩ vậy.
Nhưng, không có ai quay lại!
Một chiếc xe hơi rướn sát đến bên anh, rồi dừng lại, rít bánh, cách anh nửa gang tay. Người tài xế trẻ tuổi thò đầu ra khỏi xe, miệng làu bàu:
- Có đánh rơi thì cũng từ từ mà nhặt chứ, bố ạ!
- Suýt nữa toi mạng ông xích lô rồi…
Nhiều tiếng xì xào từ bên kia đường vọng sang, nhưng anh không muốn nghe thêm. Thong thả anh treo cục thịt bên hông xích lô, rồi vội vàng đạp xe thật nhanh ra khỏi khu vực đó, giấu đi vẻ vui mừng. Không phải vui vì mình vừa thoát chết, nhưng vui vì người làm rơi đã không trở lại tìm gói thịt. Thật vậy, quên mất cơn đói gay gắt trong lòng, anh đạp thẳng một mạch về nhà.
– Ba mua thịt, ba mua thịt nhiều quá mẹ ơi! Các con anh mừng rỡ.
Nhìn các con xúm xít lại, sờ mó cục thịt đùi nặng hơn hai ký, một chân giò, hai miếng thịt ba rọi cũng khoảng hai ký, còn có thêm xương sườn và xương ống cuộn tròn trong những tấm lá chuối lấm lem cát bụi… Anh cố giấu dòng nước mắt trôi dài trên đôi má sạm đen nắng gió. Chỉ có vợ anh biết rõ nguồn gốc cục thịt ấy. Anh khóc vì niềm vui vô tư, tíu tít của các con, hay vì câu nói của vợ:
- Chúa đã ban ơn cho nhà mình đó anh!
Từ lâu rồi, anh là một kẻ khô đạo. Có thể đây là của dư thừa của một gia đình giàu có vô tình hay cố ý đánh rơi chăng?
- Chúa ban ơn cho mình? Đó chỉ là ý nghĩ của vợ anh thôi.
Hồi trước, trong chiến tranh, cận kề với sự chết và chứng kiến nhiều cái chết đau thương của biết bao đồng đội nên anh quý cuộc sống hơn ai hết. Nhưng anh không quý cuộc sống bằng cách sống tốt, sống đúng nghĩa sống như ba má anh vẫn khuyên nhủ anh, như vợ anh vẫn nguyện cầu cho anh. Anh lại sống vội vã, tận hưởng mọi lạc thú trên đời như sợ rằng “…chết xuống âm phủ biết có hay không?”. Anh sống không có ngày mai. Những ngày phép ngắn ngủi, sau hàng tháng hành quân miệt mài gian khổ, thường bị anh bán rẻ nơi các quán bar tràn ngập rượu mạnh đắng ngắt và khói thuốc cay xè, khác hẳn mùi thơm quen thuộc của thuốc súng thường ngày… Lại thêm, bao biến cố dồn dập về sau làm cho cuộc đời anh dần trở nên cơ cực về kinh tế và khô khan trong tâm hồn. Đến nỗi, giờ đây, gần như anh không còn nhớ gì đến Chúa nữa…
* * *
- Ngoại ơi! Sao ngoại khóc vậy?
Tiếng nói bập bẹ của đứa cháu ngoại làm anh trở về với thực tại. Những ký ức gần ba mươi năm qua như dòng sông cứ mãi tuôn trào. Năm xưa anh giấu kín được niềm cảm xúc trào dâng. Con gái anh không thấy ba nó khóc trong ngày 28 tết ấy, nhưng nay thì anh không giấu được đứa cháu ngoại mới lên ba tuổi. Với cuộc sống sung túc hôm nay, anh thật không thể nào quên được những tháng ngày cơ cực đó.
Anh chợt nghĩ đến Thánh Giuse, gia trưởng của Thánh Gia Thất ngày xưa. Có lẽ Ngài cũng đã không khỏi xúc động khi nhìn thấy Chúa Giêsu mừng rỡ mân mê món quà nhỏ mà Ngài đã mang về sau một chuyến giao hàng. Khó mà đánh giá tầm cỡ cao thấp giữa tình thương của người cha và tình yêu của mẹ. Chỉ có khác nhau ở hình thức bên ngoài như xưa nay người ta vẫn ví von: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Tình cha cũng dạt dào như tình mẹ nhưng luôn ẩn tàng kín đáo, âm thầm yêu thương và phục vụ vợ con mà ít khi bộc lộ tình cảm đối với con cái nhất là bằng lời nói. Do đó, không lạ gì trong Tân Ước, các thánh sử không ghi được một lời nào của Cha Thánh Giuse.
Ngày xưa, cha của anh cũng khá nghiêm khắc với anh, anh không khỏi bất mãn, dầu mẹ anh đã cố gắng nói tốt cho ông. Cho đến khi anh hiểu được thế nào là tình cha, thì người cha đáng kính, đáng yêu của anh đã về bên kia thế giới ngàn thu. Nhiều lần ngồi một mình lắng đọng tâm tư trên tầng thượng này, anh rất thèm được nghe lại giọng nói dạy dỗ nghiêm nghị của ông, nhưng không bao giờ còn có thể…
Không thể… mãi cho đến ngàn thu…
Ngày nay, anh cảm nghiệm được tình Cha trên trời luôn rộng lớn và Người luôn dành cho anh một tình thương thật bao la. Sau bao tháng năm vất vả với nghề đạp xe ôm, gia đình anh cũng dần trở nên ổn định khi nền kinh tế được mở cửa trở lại. Vợ anh được trở lại nghề cô giáo, còn anh cũng thôi đạp xe ôm để ở nhà kinh doanh tạp hoá nhỏ. Cuộc sống cũng dần khá hơn. Các con anh được ăn học, trưởng thành về nhân bản và giáo lý, còn anh cũng đã trở thành ông trùm năng nổ trong mọi công việc, hoạt động của giáo xứ. Tất cả là do bàn tay Chúa dìu dắt, qua lời cầu nguyện liên lỉ và âm thầm của vợ anh. Nếu không có người vợ hiền tần tảo và chịu thương chịu khó ngày đó, thì hôm nay, anh làm sao có được một gia đình đầm ấm sum vầy như hôm nay. Qua tất cả, anh cảm nhận được rằng: Chúa luôn đồng hành với anh và gia đình mỗi ngày trong đời sống.
Phù Vân