Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng (Tv 126,5).
Thánh lễ kết thúc khi trời đêm chưa kịp nhường chỗ cho bình minh ló rạng. Ra khỏi thánh đường, bà Năm nặng trĩu suy tư: “Giờ này các ngài đang ở đâu?”
Đã gần hai tháng kể từ ngày cha Minh và thầy Sáu – những thầy giảng Dòng Đa Minh, bị đám lính từ kinh đô về vây bắt. Làng trên xóm dưới đều xôn xao. Ngoài những “tin cóc” nơi đầu làng, cuối chợ, bà Năm và tất cả giáo hữu trong xứ không nhận được bất kỳ thông tin chính thức nào về các ngài. Kẻ độc miệng cho rằng Cha là gián điệp của địch, viện cớ giảng đạo Gia-tô để chờ thời cơ cướp nước. Có người lại cho rằng Cha đã đưa tiền chuộc và trở về quê hương. Cũng có người tự an ủi bản thân rằng Cha chỉ bị giam cầm ít bữa rồi được thả tự do. Phần bà Năm, trước kia chỉ là một lương dân, nhưng từ khi được nghe Cha giảng đạo và chịu phép rửa, bà luôn tin nhận: Cha Minh là đầy tớ trung thành của Thiên Chúa, người mục tử hết lòng vì đoàn chiên.
Rảo mắt nhìn quanh, bất cứ cảnh vật nào cũng khiến bà nhớ tới hình bóng Cha: ngôi nhà thờ tuy đơn sơ, nhỏ bé nhưng ấm tình Cha-Con; lớp tình thương cho đám trẻ học lấy con chữ; xa xa, khu vườn chính tay Cha ươm trồng để lấy giống và tạo cái nghề cho mọi người, bất kể lương-giáo; cả phòng thuốc miễn phí với cái tráp thuốc đông y đã từng cứu mạng Cha khỏi lũ cướp hung bạo trong xứ… Làm sao xứ đạo của bà có thể gượng dậy sau bao đau đớn do chiến tranh để lại, nếu không có bàn tay Cha – người tu sĩ Đa Minh cần mẫn và kiên trì gieo hạt giống qua từng ngày?
Ánh mắt xa xăm, bà Năm nhớ lại những ngày đầu tiên cha Minh đặt chân tới mảnh đất “nước chảy đá cũng không mòn” này. Với lòng nhiệt thành và tình yêu thương tràn đầy của vị truyền giáo trẻ, Cha đã không quản ngại bao khó khăn, vất vả nơi xứ người để hết mình vun xới và gieo trồng hạt giống đức tin cho quê hương bà. Ngay cả khi được tín nhiệm bầu làm Giám mục, Cha vẫn sống cách giản dị và gần gũi với bà con trong xứ.
Những tưởng bao công lao Cha thực hiện sẽ được quan phủ và triều đình tán thưởng, nhưng không, một ngày nọ, đang khi dâng lễ, một toán lính từ kinh đô ập vào, bao vây và bắt Cha với bản án bất ngờ: “Tả đạo… lừa đảo ngu dân.” Bà con trong xứ, nhất là gia đình bà Năm đã tìm đủ mọi cách để giúp Cha trốn thoát nhưng không thành. Bà buồn lắm!
Đang mải mê trong dòng suy tưởng, bỗng một người lay mạnh bà Năm, hốt hoảng nói:
– Cha Minh và thầy Sáu bị điệu ra pháp trường rồi, bà Năm ơi!
Hoảng hốt, vô định, tai bà Năm ù đặc, miệng ú ớ không thể cất lên lời. Bà vội vã chạy về phía pháp trường (nơi xử tử những tên tù tội không thể tha thứ). Chen lấn qua dòng người đang xô đẩy, bà thoáng thấy bóng cha Minh và thầy Sáu ngồi trong cũi đang chuẩn bị cho lý hình thi hành án. Bà khóc, khóc bằng cả con tim đang rỉ máu, khóc bằng tình cảm của “đứa con ruột” dành cho người cha của mình. Gương mặt phúc hậu và luôn tươi cười ấy giờ biến dạng vì những vết đòn roi. Bà tự hỏi Cha đã làm điều gì xấu xa để thành cơ sự như thế này?
Sau khi xử trảm thầy Sáu, lý hình trao đầu và đẩy Cha lên nơi trảm quyết. Trái ngược với nỗi sợ hãi và khóc lóc của những tên tội nhân từ trước tới giờ, với vẻ mặt bình thản, Cha mỉm cười, giơ tay ban phép lành cho các tín hữu đang khóc thương Cha, rồi ngước mắt nhìn lên trời. Có lẽ, Cha đang tạ ơn Thiên Chúa và dâng lên Người những hoa trái mà Cha đã nhọc công gieo vãi, vun trồng bằng cả tính mạng nơi mảnh đất này.
Bà Năm quỳ sụp xuống như muốn dâng lời tạ ơn cùng với Cha. Bà ước mong những giọt máu đào đã rơi xuống sẽ trổ sinh bông hạt. Bà ước mong con cháu bà và những thế hệ sau này sẽ giữ vững đức tin, “khấp khởi mừng” vì thu lượm và sống những thành quả đức tin do Cha đã “nghẹn ngào gieo giống.”
Ánh Minh
* Bài viết có sử dụng tư liệu trong sách hạnh tích thánh tử đạo)