Những ngày của Mùa Chay Thánh dang dần khép lại trong bầu khí sốt mến của Tuần Thánh. Sau những tháng ngày tất bật, lo toan trong sứ vụ nơi các cộng đoàn hoặc giáo xứ, với bao niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn và hồng ân của đời dâng hiến, có những lúc sốt sắng nhưng lắm lúc mệt mỏi, yếu đuối, thậm chí muốn buông xuôi, chị em chúng con thật hạnh phúc có được một trạm dừng chân mang tên Giê-su. Nơi đây, chúng con tạm gác lại những lắng lo bộn bề của công việc mục vụ, để tĩnh tâm, để được dìm mình trong sự hiện diện của Chúa cách thâm sâu hơn, nhất là ôn lại tình yêu với Đấng Tình Quân mà chúng con đã thề ước. Chúng con bước vào tuần tĩnh tâm năm, một kì sa mạc tâm hồn. Thật ý nghĩa khi những ngày sa mạc tâm hồn lại diễn ra trong Mùa Chay Thánh, giúp tâm hồn chúng con sâu lắng và dễ gặp Chúa hơn…
Với người tu sĩ, mỗi kì tĩnh tâm là thời gian để lắng lòng, để ngụp lặn trong tình yêu, sự tha thứ và lòng thương xót của Chúa. Nhờ đó, trái tim và tâm hồn chúng con được tưới gội và tái tạo. Đồng thời, đây cũng là một cơ hội thuận lợi để chúng con có thể nhận ra sa mạc khô cằn của chính tâm hồn mình, nhìn lại một năm đã qua với biết bao điều để tạ ơn, tạ lỗi và cố gắng hơn để làm mới lại tương quan với Chúa, với chị em và với chính mình.
Thực tế, sa mạc là một nơi mà con chưa từng một lần được đặt chân đến, có chăng cũng chỉ qua lời kể, hay qua phim ảnh sách báo. Những mường tượng trong con về sa mạc là nơi đầy cát, rắn, rết, gió nóng hay sự thiếu thốn, và trên hết là sự cô đơn hiu quạnh, một nơi có thể nói là sự sống không thể tồn tại. Do đó, với chủ đề “Vào Sa Mạc”, dù đã rất quen thuộc, nhất là trong những dịp tĩnh tâm nhưng thật ra vẫn còn rất mơ hồ và khó hình dung, nhất là trong một xã hội ngày càng hiện đại và tiện nghi. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa và sự hướng dẫn của Cha giảng phòng, chúng con từng bước tiến vào sa mạc để gặp Chúa. Sa mạc ở đây không phải sa mạc vật chất, chẳng có cát trắng cũng chẳng có gió nóng hay dã thú… Nhưng sa mạc ở đây là một thực tại, nơi chỉ còn mình ta với Chúa và ta với ta. Đó là sa mạc của tâm hồn, một sa mạc không phải để hủy diệt sự sống nhưng là để tìm thấy và kín múc Nguồn Sự Sống là chính Đức Ki-tô – Sa Mạc Tình Yêu. Đến với Sa Mạc Tình Yêu, chúng con nhận ra sa mạc của chính mình, với những thực tại thật nhất nơi chúng con, mà trong đó không thiếu vết nhơ và yếu đuối. Nhờ đó, mỗi chị em chúng con có thể nhận ra giữa sa mạc ấy luôn có một Sa Mạc Tình Yêu không bao giờ vơi cạn, nơi mà chúng con có thể gặp gỡ và kết hiệp với chính Đấng Tình Quân. Khi bước vào tuần sa mạc với Chúa, trong con vang vọng câu của chính Chúa Giê-su: “Anh em ra xem gì trong hoang địa?”
Từ câu hỏi nền tảng ấy, khi vào trong sa mạc của tâm hồn, con đi tìm chính Chúa để thấy chính con. Nhờ đó, mỗi ngày, con đi vào trong Suối Nguồn của tình yêu. Nơi đó, con dần khám phá khuôn mặt dịu hiền yêu thương của một Thiên Chúa không mệt mỏi tha thứ và yêu thương con. Giữa sa mạc tưởng như khô cằn, lại mọc lên Cây Sự Sống mang tên Thập Giá Đức Ki-tô. Trên cây Sự Sống ấy là một Con Người đang thoi thóp và sắp phải chết vì tội lỗi con người, mà trong đó có con. Con Người đang thoi thóp ấy đang nói với thế giới, với nhân loại và với chính con những lời cuối cùng, để rồi Ngài hoàn tất chương trình cứu độ, chịu chết và Phục sinh để cứu độ muôn người.
Vì thế, trong tuần tĩnh tâm, con chiêm ngắm Đấng Tình Quân qua Mầu nhiệm Thập Giá, khi lắng nghe và suy gẫm mỗi ngày Bảy Lời Cuối Cùng Ngài nói khi xưa trên Thập giá. Nhờ đó, con khám phá và tái khám phá những điều Ngài muốn nói với chính con. Để qua những lời đó, sức mạnh của sự an ủi, nâng đỡ và chữa lành trào tràn trong con, để con kín múc, tái tạo và có đủ sức để tiếp tục vui đời dâng hiến vì luôn có Chúa ở cùng.
Lạy cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm! Đó là lời đầu tiên mà Chúa Giê-su ngỏ với Chúa Cha khi Ngài bị treo trên Thập giá. Đây cũng là lời mà Ngài luôn nói với con và muốn con làm như vậy trong tuần tĩnh tâm cũng như suốt cuộc đời, khi luôn biết tha thứ cho anh chị em và cho chính mình. Thật vậy, tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ cách trọn vẹn qua cái chết và sự Phục sinh của Chúa Ki-tô. Qua đó, Ngài tha thứ mọi tội lỗi của con người, cho con người được ơn cứu độ, được tái sinh và nâng con người lên làm “dưỡng tử” của Ngài nhờ Máu và Nước. Điều này được chính Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể minh chứng trong suốt đời trần thế qua lời rao giảng, qua việc chữa lành bệnh tật, hay làm phép lạ, cho kẻ chết sống lại và chính Ngài đã sống lại sau khi chết. Không những thế, ngay trước khi trút hơi thở Ngài vẫn tha cho chính kẻ giết Ngài như dấu chỉ của sự tha thứ đến tận cùng. Đó cũng là điều Thiên Chúa vẫn không mệt mỏi làm cho con người qua lòng thương xót và sự tha thứ, nhất là nơi Bí tích Hòa giải. Giữa một thế giới vẫn ngập tràn bạo lực, bất công, chiến tranh và chết chóc, Thiên Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ để con người được sống và Ngài cũng mời gọi con người biết tha thứ cho nhau dù điều đó chẳng dễ dàng, bởi sự ích kỉ và lòng tham kéo theo sự hận thù nơi con người. Chính con cũng là một tội nhân luôn được tình yêu và sự tha thứ của Ngài chạm đến, mỗi khi con bội phản. Chỉ cần con biết chạy về phía Ngài và thưa lên “xin tha tội cho con, dù con không biết việc con làm” thì Ngài vẫn sẵn sàng tha thứ và giang rộng vòng tay đón con trở về trong tình yêu của Ngài. Ước chi, con cũng biết thực thi lòng thương xót và sự tha thứ trong sứ vụ và trong đời sống, để hình ảnh lòng thương xót của Chúa được chiếu sáng trong thế giới và con người hôm nay.
Hôm nay anh sẽ được ở cùng với tôi trên thiên đàng. Đó chính là lời hứa của Đấng Cứu Thế với kẻ trộm khôn ngoan và khiêm tốn khi anh nhận ra tội của mình và thú nhận với Chúa để được chính Con Thiên Chúa tha thứ và ban tặng Nước Trời. Lắng nghe lời Ngài ngỏ với anh trộm lành, con cũng ước mong sẽ nhận được phần thưởng mà con hằng mong ước là chính Chúa. Thật vậy. Thiên Đàng hay Nước Trời là niềm hy vọng và đích điểm của mọi Ki-tô hữu, cách riêng người tu sĩ. Mọi thứ sẽ vô ích, nếu sau khi kết thúc cuộc đời trần gian, thay vì nhận được lời hứa của Chúa với tên trộm lành, con lại nhận lấy sự im lặng của Ngài với tên trộm dữ khi anh ta khước từ, thậm chí thách thức Thiên Chúa.
Từ trên thập giá nhìn xuống Thân Mẫu và người môn đệ yêu dấu của mình, Chúa Giê-su nói: “Thưa bà này là con bà… này là Mẹ con”. Chính Chúa Giê-su đã đặt Đức Mẹ làm Mẹ Giáo hội qua thánh Gioan và ngược lại trao Giáo hội cho Mẹ, để rồi từ ngày đó Đức Mẹ trở thành Mẹ của Giáo hội và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Thế nhưng, trong cuộc sống và trong sứ vụ, nhiều lúc con đã thiếu sự cậy trông và quên mất người Mẹ này, để rồi nhiều lúc cảm thấy cô đơn và lạc lõng, nhất là khi gặp những thử thách gian nan và mệt mỏi. Vì thế, qua lời của chính Chúa, con luôn ý thức nhờ Mẹ, con sẽ gặp Chúa cách dễ dàng hơn, và nhờ lời Mẹ bầu cử, chắc chắn Chúa nhậm lời. Chính Chúa ngỏ lời và nhắc nhớ để con biết bám vào Mẹ, biết chạy đến với Mẹ trong mọi cảnh huống của cuộc đời, nhất là trong sứ vụ giữa một thế giới ba đào mà sự dữ và hiểm nguy luôn vây bủa, để rồi có Mẹ con an tâm vững bước và hướng thẳng Quê Trời.
Cuộc đời ẩn chứa nhiều bất ngờ, và giữa bao bất ngờ ấy không thiếu những lúc người tu sĩ chúng ta cảm thấy tuyệt vọng và như thể bị chính Thiên Chúa lãng quên và bỏ rơi. Mỗi lúc như thế, chúng ta hãy chiêm ngắm chính lời than thở như thể tuyệt vọng của Con Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ con?” Quả thật, cảm giác bị bỏ rơi là một tâm trạng mà mọi người, cách riêng những người sống đời tu đều phải trải qua. Những đêm tối đức tin, nhất là mỗi khi thất bại và yếu đuối khiến con như thể bị ném khỏi cuộc đời và cảm thấy chính Thiên Chúa bỏ rơi. Những lúc như thế, xin Chúa giúp con biết dùng chính Lời Ngài an ủi và đỡ nâng. Để rồi, con cũng biết thốt lên như chính Con Chúa khi xưa, và chính nhờ thốt lên nỗi tuyệt vọng và cảm giác cô đơn, con sẽ nhận ra tiếng Chúa Cha đáp lại và cứu con khỏi nỗi cô đơn và nỗi buồn chán trong cuộc đời.
Mỗi ngày tĩnh tâm trôi qua, thời gian cứ chầm chậm trôi, Lời của Đấng tình quân như tha thiết hơn: “Ta khát”. Lạy Chúa, Chúa khát gì? Vâng Chúa khát tình yêu, khát ơn cứu độ vì Ngài muốn cứu độ các linh hồn và ban tặng tình yêu cao cả của Ngài cho toàn nhân loại. Nhất là giữa một thế giới như thể không đói khát cơm bánh, nhưng đói khát tình yêu, người tu sĩ luôn phải hiến thân để thuộc về Ngài và mang nơi mình cơn khát của Chúa. Để rồi, mang nơi mình cơn khát ấy, người tu sĩ, mà trong đó có con, được mời gọi làm tất cả với sự nhiệt tâm để xây dựng sự hiệp nhất qua gương sáng nơi các giáo xứ. Không những thế, con cũng luôn biết cố gắng để hiệp nhất với chị em, với cha xứ, với giáo xứ… Để được như thế, con tập bỏ cái tôi của mình để thống nhất và đồng tâm nhất chí xây dựng Hội dòng và Giáo hội ngay chính nơi con phục vụ. Nhờ đó, con góp phần nhỏ bé của mình vào sứ mạng làm thỏa cơn khát của chính Thiên Chúa. Trong cuộc sống có nhiều cơn khát, khát nước chỉ là thứ vật chất tầm thường, nhưng khát Chúa mới là nỗi khát vô tận của con người, nhất là giữa thế giới đang vắng bóng Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Vì thế, trong sa mạc tình yêu này, trước Đấng Tình Quân, xin cho con được no thỏa, được thỏa cơn khát nơi sâu thẳm tâm hồn con khi con có Chúa và biết mang Chúa đến cho mọi người.
Khi tuần tĩnh tâm dần khép lại, Lời của Chúa thôi thúc con “Mọi sự đã hoàn tất”. Thời gian trôi thật nhanh, tuần sa mạc dường như dần ngắn lại để rồi mọi sự hoàn tất. Tuy nhiên, với người tu sĩ, tuần tĩnh tâm khép lại, tuần sa mạc hoàn tất không phải để chị em chúng con quên đi thực tại và sứ vụ trước mắt. Trái lại, hoàn tất cũng là lúc Chúa kêu mời chúng con lên đường và tiếp tục thi hành sứ vụ và ơn gọi mà Chúa và Hội dòng trao phó. Để rồi, trong hành trình sứ vụ, có Chúa đồng hành và chở che, chúng con đủ sức thắng lướt mọi gian nguy và chu toàn bổn phận để làm vinh danh Chúa mà mưu ích cho nhiều linh hồn. Ước chi, mỗi khi hoàn thành công việc, con luôn biết tín thác trong Chúa “mọi sự hoàn tất” dù kết quả có ra sao, con cũng xin phó dâng trong sự quan phòng của Ngài. Nhờ đó, đời tu và sứ vụ của con sẽ nên nhẹ nhàng và thanh thản, bớt bị vướng bận vì luôn ý thức Chúa là tất cả của con, thế là đủ rồi!
Trước khi trao thần khí, sau khi mọi sự đã hoàn tất, Chúa Giê-su dường như đã cảm nhận được câu trả lời của Chúa Cha. Ngài nhận ra Chúa Cha không bao giờ bỏ rơi Ngài và không để Ngài một mình. Để rồi, sau khi mọi sự hoàn tất, chương trình cứu độ đã đến lúc thành toàn, Ngài thưa lên với Chúa Cha: “Lạy cha! Con xin phó linh hồn trong tay Cha”. Lời cuối cùng này của Chúa Giê-su cũng là điều mà tất cả mọi người mong ước để khi kết thúc sứ mạng hay cuộc sống trần gian, chúng con cũng biết phót trót linh hồn và mọi sự trong tay Chúa, vì chỉ trong tay Ngài chúng con mới có sự sống và được sống đời đời.
Một tuần sa mạc tưởng dài nhưng lại thật quá nhanh. Một tuần bên Chúa với Bảy Lời của Đấng Tình Quân giúp mỗi chị em chúng con nhìn lại chính mình trong tương quan với Chúa và với tha nhân. Nhờ đó, mỗi ngày chúng con kín múc được nguồn sức mạnh của sự tha thứ và tình yêu để tiếp tục bước trên hành trình dâng hiến dẫu còn giăng đầy muôn lối với bao vất vả nhọc nhằn và cả những thử thách. Cuộc đời sẽ tiếp tục và khi trở lại với những sứ vụ, ước chi lời cuối cùng của Thầy Chí Thánh tiếp tục vang vọng và trở thành nguồn sống giúp mỗi người chúng con có thể sống sứ vụ và ơn gọi của mình một các chân thành và nhiệt huyết hơn, hầu mưu cầu ơn ích cho nhiều người trong thế giới hôm nay.
Nt: MariaGoretti Mailan