Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, mọi sự dường như con người có thể kiểm chứng được. Có lẽ mọi sự người ta có thể cân đong đo đếm được. Vì thế, con người dễ dàng chỉ tin vào những điều mà họ thấy một cách rõ ràng hay được chứng minh một cách hợp lý. Tuy nhiên, có những điều dù không được kiểm chứng theo cách con người nhưng nó lại là một chân lý hết sức hiển nhiên và người ta không thể không tin vào sự hiện diện của nó. Có nhiều thực tại hiện hữu dù không thấy nhưng ai cũng đều tin và sống cùng với nó như tình cảm, tình yêu, đau khổ… Vì vậy, để có thể nhận biết được những thực tại vô hình thì ta cần thấy được những biểu hiện của nó. Do đó, việc loan báo Tin mừng, giới thiệu về Chúa cho người khác không gì hữu hiệu hơn là qua chính đời sống chứng tá của người tông đồ.
Quả vậy, Đức Giê su chết trên thập giá thì có nhiều người chứng kiến, nhiều người biết đến, nhưng việc Ngài sống lại thì không ai chứng kiến. Ngay cả các môn đệ thân tín cũng không một ai thấy được Chúa sống lại thế nào. Vì thế, việc giới thiệu Chúa sống lại là một điều hết sức khó khăn bởi họ chưa biết rõ sự việc ra sao. Những bằng chứng mà họ được thấy cũng chưa đảm bảo và giúp họ xác tín vào việc Chúa sống lại. Một ngôi mộ trống có nhiều giả thiết được đặt ra khiến cho các môn đệ cũng không thể tin một cách chắc chắn. Khi Chúa hiện ra với người này người khác và họ đã nói lại nhưng các môn đệ vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Bởi có thể chính những người loan báo này cũng chưa cho thấy được một sự khẳng định mạnh mẽ. Đó là lý do tại sao các ông vẫn chưa tin.
Trước hết với Maria Madalena, một người môn đệ đã yêu Chúa một cách mãnh liệt. Bà cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho cuộc đời mình nên đã đáp lại bằng cách yêu Chúa với trọn con người của mình. Cái chết của Thầy Giê su Chí Thánh chắc hẳn đã để lại cho bà một sự khủng hoảng vô cùng to lớn. Tình yêu của bà quá lớn đã khiến bà vượt qua nỗi sợ hãi thông thường để ra mộ giữa trời còn đêm tối để hoàn tất việc mai táng Thầy mình. Bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang đang diễn ra trong đầu của bà đã làm cho bà chưa thể hiểu được việc Thầy mình đã sống lại. Dù được gặp Chúa, được đụng chạm vào Ngài nhưng có lẽ bà vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Vì thế, việc bà trở về để báo cho các môn đệ chắc hẳn còn trong trạng thái vừa sợ vừa mừng. Điều này khiến họ khó tin. Hơn nữa, có thể các môn đệ khác cho rằng vì bà quá yêu Chúa và đang đau khổ vì cái chết của Thầy nên bà có những hoang tưởng. Và họ dễ dàng gạt đi cho qua chuyện.
Thứ đến với hai môn đệ trên đường Emmau. Họ là những người đang thất vọng vì cái chết của Thầy mình. Họ cũng đã có một lý tưởng là sẽ theo Thầy Giê su, làm môn đệ của Ngài. Họ sẵn sàng từ bỏ quê hương, cuộc sống cá nhân để theo đuổi ước mơ. Thế nhưng, khi chứng kiến cái chết đau thương của Thầy, họ đã vô cùng thất vọng. Giờ đây, họ quyết định trở về quê hương, về với cuộc sống trước đây của mình. Nỗi buồn phiền, thất vọng đã khiến họ không thể nhận ra người đi cùng với họ trên đường là Thầy Giê su đã sống lại. Đức Giê su đang sống, điều này họ chưa có ý niệm, chưa mường tượng ra. Dẫu trên cuộc hành trình có những lúc lòng họ đã bừng cháy niềm tin tưởng và hy vọng nhưng họ vẫn chưa nhận ra Chúa đang cùng đi. Và chỉ khi họ được chứng kiến hành động bẻ bánh quen thuộc của Chúa nơi bàn ăn của gia đình thì họ mới nhận ra. Có lẽ lúc này họ đã tin nhưng chưa hoàn toàn mạnh mẽ bởi họ chưa kịp chuyện trò với Chúa thì Ngài đã biến mất. Ngay lập tức họ quay trở về để báo cho các môn đệ. Cho dẫu đầy phấn khởi vui mừng, nhưng các ông vẫn chưa tin bởi hai môn đệ chưa thể hiện được sự xác tín cho thấy việc Chúa sống lại. Các môn đệ khác có thể cho rằng hai người này vì buồn phiền, mệt mỏi, thất vọng nên đã tưởng tượng ra điều đó. Và họ vẫn không tin.
Cuối cùng, Chúa đã hiện ra với tất cả các môn đệ. Ngài đã trách các ông đã không tin những người đã loan báo việc Ngài sống lại. Chắc hẳn chẳng có ai trong số các môn đệ sẽ giải thích lý do tại sao các ông không tin vì chính các ông dù đang được thấy Thầy mình đây nhưng vẫn còn đầy những nghi hoặc. Liệu đây có phải là Thầy thật không? Thầy đã sống lại thật sao? Có lẽ những điều vừa diễn ra trong mấy ngày qua đã khiến cho tâm hồn các ông vẫn đang ngổn ngang những suy nghĩ và dự tính. Được gặp Thầy lúc này vừa mừng nhưng cũng vẫn còn chưa hết lo lắng và sợ hãi. Chính vì thế, Đức Giê su muốn củng cố tinh thần cho các ông trước khi Ngài truyền cho các ông thi hành sứ mạng: “Anh em hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Sứ mạng ấy đòi hỏi một đức tin mạnh mẽ, một niềm xác tín vào chính sự hiện diện của Thầy Giê su đã chết mà nay đang sống. Đây là một nhiệm vụ đầy phấn khởi, hạnh phúc nhưng cũng đầy những thách đố. Các ông phải nói cho mọi người biết về điều vô cùng vui và vĩ đại về Chúa của mình. Điều này phải phát xuất từ chính cảm nghiệm cuộc đời của các ông. Lúc này đây các ông đã biết và gặp được Chúa phục sinh. Thế nhưng rồi khi các ông ra đi thì Chúa không hiện diện cách hữu hình. Do đó, các ông phải cho mọi người thấy đức tin của mình về việc Chúa đang cùng đi với các ông. Tin mừng phải được thể hiện bằng chính đời sống đầy vui tươi và xác tín của các môn đệ.
Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của người ki tô hữu nói chung và của mỗi người sống đời tu nói riêng. Việc Chúa đã đến làm người và thực hiện chương trình cứu độ bằng cái chết trên thập giá và sự Phục sinh vinh quang để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại là một chân lý. Tuy nhiên, chúng ta sẽ giới thiệu những tin vui ấy cho mọi người thế nào nếu đời sống của mỗi người không cho thấy điều đó. Loan báo Tin Mừng không chỉ là nói lại một điều ta đã được nghe biết mà còn phải là họa lại điều chính ta được lãnh nhận nơi chính cuộc đời của mình. Đó không phải là một lý thuyết trừu tượng xa xôi nhưng là một điều hết sức cụ thể qua đời sống đức tin của mỗi người.
Người sống đời tu hôm nay được đào tạo với rất nhiều kiến thức triết học, thần học. Họ được trau dồi rất nhiều những hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, họ có thể truyền đạt và thuyết giảng cho người khác rất hay, rất tốt nhưng chính đời sống của họ thì dường như vẫn chưa ăn nhập với điều họ nói. Họ chưa cho thấy một đức tin mạnh mẽ, một sự xác tin vào sự hiện diện đầy yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa. Có những người loan báo Tin mừng mà cuộc sống luôn đầy những u buồn, thiểu não. Có bao người giới thiệu về một Thiên Chúa yêu thương mà lòng vẫn đầy những ghen ghét, đố kỵ, hận thù. Đâu đó vẫn có những người mời gọi mọi người sống hy sinh phục vụ mà lại luôn đòi hỏi người khác phải phục vụ mình. Họ tự cho mình quyền được thừa hưởng những điều mà họ nghĩ là đã hy sinh, từ bỏ để theo Chúa. Một đời sống trái ngược với sứ mạng thật khó để người khác tin và đón nhận sứ điệp mà ta muốn truyền tải. “Lời nói thì lung lay nhưng gương bày thì lôi kéo”. Thật vậy, sứ mạng loan báo Tin mừng sẽ không được đón nhận nếu chính người rao giảng không nỗ lực để sống. Chính khi ta sống tất cả những điều mà Chúa mời gọi thì tự động người ta sẽ khám phá và đón nhận được tình yêu và ơn cứu độ mà Chúa mang lại cho con người.
Giữa một thế giới đề cao hình thức, người môn đệ của Chúa cũng bị cám dỗ để thực thi sứ mạng theo phong trào bên ngoài mà không sống điều cốt lõi mà Chúa muốn. Chúng ta chưa sống chứng nhân Tin mừng trong đời sống hàng ngày. Vì thế, còn biết bao người vẫn đang khao khát tìm kiếm Chân Lý nhưng vẫn chưa gặp được. Biết bao người muốn theo Chúa nhưng vẫn còn băn khoăn bởi chưa thấy nơi người môn đệ của Chúa một niềm xác tín tin tưởng. Đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa biết rõ sự yếu đuối, giới hạn và đức tin yếu kém của chúng con nhưng Chúa vẫn trao cho chúng con sứ mạng loan báo Tin Mừng của Chúa. Xin ban thêm sức mạnh và đức tin kiên vững cho mỗi người chúng con để chúng con diễn tả Tin mừng của Chúa bằng đời sống đầy xác quyết của mỗi người chúng con. Qua đó, mọi người có thể tin, nhận biết và được hưởng ơn cứu độ mà Chúa đã thực hiện cho chúng con.
Con Nai